KHÍ
1/Thử phác hoạ ý niệm khí:
So với phần Thần ,ý niệm khí trong trong tướng học á Đông cò khó miêu tả hơn nhiều vì nó vừa có tính cách mông lung vừa có tính cách thực tiễn. Chẳng hạn khi quan sát xương cốt của một cá nhân ,ta thấy khí thế ổn trọng, dù người đó mập hay ốm, tạo một cảm giác khang kiện cho nội tạng. Hiện tượng đó được gọi là cốt khí mạnh mẽ .Nhìn vào khuôn mặt có ngũ nhạc triều quy nghĩa là trán, cằm, hia tai và lưỡng quyền phối trí hòa hợp (harmonieux) từ đó giúp ta suy ra cốt cách * của cá nhân đó mạnh hay yếu thì đấy cũng gọi là cốt khí.
Quan sát lông mày ,râu tóc ta thấy ba thứ lông đó đều tươi mát ,thanh nhân
tạo ra ấn tượng ,nội tạng tốt ,nhìn Tứ đậu sáng sủa có sinh khí ,da thịt rắn
chắc và ấm áp thì tất cả các dấu hiệu được coi là biểu hiện của khí tốt . Ngược
lại ,lông mày ,râu tóc
vàng khô như cỏ úa ,Tứ đậu ảm đạm , da thịt lãnh lẽo mềm bệu thì ta biết ngay là
khí xấu, điều đó cũng tương tự như người quan sát chất đất ,không cần phân tích
chất đất chỉ cần nhìn cây cỏ mọc trên mặt đất là đủ biết đất phì nhiêu hay khô
cằn.
Nghe tiếng nói của một cá nhân ta nhận biết được làn hơi của kẻ đó mạnh
hay yếu qua âm thanh phát ra :có người nói tiếng rổn rảng mạnh mẽ tựa như muốn
rung chuyển cả mái ngói, có kẻ rì rào như tiếng dế kêu và ta cũng thấy rằng
tiếng nói to nhỏ mạnh yếu , vang đi xa ahy gần không hẳn tùy thuộc vào người tác
lớn hay nhỏ, cao hay thấp mà do những nguyên do nội tạng .Nghuyên do nội tạng
đặc thù của từngcon người tạo ra các trang thái âm thanh kể trên được tướng học
Á Đông gọi là
nội khí của con người.
Như vậy ,khí trong nhân tướng học là phần thực tại nhưng vô hình ở trong cơ
thể con người tượng trưng cho phần hoạt lực (vitaliré) tiềm ẩn có tính cách phẩm
nhiều hơn lượng, phát hiện ra ngoài sự mạnh mẽ của xương cốt , sự thanh tú hay
thô
trọc của râu, tóc, lông mày ,mắt mũi tai ,miệng, sự mạnh yếu của âm thanh ,sự
rắn rỏi ấm áo hay lạnnh lẽo mềm bệu của da thịt.
Nói cách khác cụ thể hơn , khí trong con người có thể ví như nhựa cây nhưng
đây là một thứ nhựa vô hình chu lưu bàng bạc khắp cơ thể toả ra hay thu gọn lại,
mạnh mẽ hay suy yếu, thanh hay trọc ,tiến triển hay giảm thiểu tùy theo từng
thời kì
từng cá nhân.
Vì hiểu vậy, người xưa co i khí là phần bản thể trong các bộ phận trong nội thể con ngườ ,nó vừa có tính cách siêu hình vừa có tính cách vật thể .
Với tính cách siêu hình , khí trong con người là một phần khí của âm Dương
Ngũ hành bàng bạc trong vũ trụ hội nhập vào con người ,lúc thọ tinh kết thể
,nương vào con mà hình thành nên tượng, khiến cho ta có thể cảm thấy hay nhận
thức được. Chẳng hạn khi Mạnh Tử nói : "Thiên dưỡng nhiên hao chi khí " ( ta cần
phải khéo bồi dưỡng cái khí hạo nhiên của mình ),thì khí trong câu nói trên là
khí tự nhiên của trời đất thể hiện nơi người ,không mấy liên hệ tới ý nghĩa vật
thể mà lại nặng về phần
tiên nhiên siêu hình.
Với tính cách vật thể , khí phần nào được cụ thể hóa bằng hơi của buồng phổi ,tinh khí của con người. Aâm thanh hùng tráng trong trẻo ,khàn đục không llà do buồng phổi lớn hay nhỏ, người lớn các hay nhỏ con ,tính khí mạnh yếu khôngphải do người bề ngoài lớn hay nhỏ thó.Nguyên động lực của các âm thanh tinh khí ,theo người xưa là do khí mà ra. Bởi vậy ,hình thể khôi ngô ,hùng vĩ khỏe mạnh không hẳn là đã chứa đựng khí hùng mạnh .Ngược lại ,dưới nhãn quang tướng học á Đông, thân thể nhỏ bé không bắt buộc coi là khí yếu .
Tóm lại, khí trong nhân tướng học Á Đông là một ý niệm đặc thù dùng để chỉ
cái bản thể siêu nhiên vô hình ,ta không thể dùng thị giác để nhận biết trực
tiếp ,nhưng có thể nhận thức được sự hiện diện của nó nơi con người qua các tác
dụng của nó hay dưới khía cạnh cấu tạo cơ thể như sự cứng cáp đắc thế hay lệch
lạc của xương cốt ,sự mạng yếu của âm thanh hay dưới khía cạnh động tác này ,
khí luôn luôn không thể tách khỏi thần và cho ta biết được sự kiện khang của
thân thể, cái cá tính
tâm hồn của con ngưòi nên thường được các tướng học gia mệnh danh là thần khí để
phân biệt với hiện tượng khí đi kèm sắc để đoán cát hung, bệnh trạng (được gồm
chung thành ỳ ngữ duy nhất là khí sắc). Đó là ý nghĩa của khí khi người ta nói
đến sát khí , uất khí , khí phách, khí chất
II- VAI TRÒ CỦA ÂM THANH TRONG VIỆC NGHIÊN CỨU KHÍ:
Như đã nói ở trên , khí trong con ngừơi biểu lộ ra ngoài dưới nhiều hkía
cạnh, trong nhiều dạng thức, nhưng dễ nhận định nhầt và rộng rãi nhất là là dạng
thức âm thanh. Nghe âm thanh của một cá nhân phát ra to nhỏ ,rõ ràng hay không
rõ ràngg ,trong trẻo hay khàn đục, cao ahy thấp ,có sinh lực hay không ,người có
cặp tay minh mẫn thường phân biệt được rất rõ.Những tính chất về phẩm âm thanh
nói trên, không tùy thuộc vào lồng ngực lớn hay nhỏ ,người mập hay gầy , cao hay
thấp mà do ở cách
cấu tạo nội tại tự nhiên(naturiel) của kẻ đó. Nói khác đi ,Những điễm đó do ở
khí chân nguyên của mỗi cá nhân có tìm cách thiên phú ,bẩm sinh, không phải muốn
có là được .Bởi nhận định như vậy, nên cổ nhân cho rằng muốn biết khí chân của
người nào mạnh hay yếu ,thanh hay trọc ,dài hay ngắn ,ta chỉ cần xét âm là
đủ...dưới nhãn quang y lí Đông phương ,khí chân nguyên mới là thọ căn (gốc thọ)
của con người chứ không phải là hình hài, bộ vị .Cho nên ,Đạt ma đã nói :" Cầu
toàn tại âm thanh" và người xưa nói :" Tướng pháp thượng thừa chủ ở âm thanh, hạ
đẳng tướng cấp căn cứ vào hình htể con người " là vậy .
III- PHÂN LOẠI KHÍ :
Ta phân biệt Ba loại Khí :
a) Khí tự nhiên (chân nguyên)
Đó là phần tinh lực vô hình ,một thứ nhựa sống tiềm ẩn của con người có tính
cách bẩm sinh. Nói cách khác đi , khí tự nhiên có tính cách tiên nhiên tùy theo
lúc bẩm sinh, thanh trọc, cường nhược mà nó có thể mạnh hay yếu thanh trọc theo
từng nội tạng của mỗi người.
b) Khí hàm dưỡng (hay tu dưỡng)
Đó là khí tiên thiên đã được gọt giũa sửa chữa theo chiều hướng cải thiện.
Dưới mắt cổ nhân, khí tiên nhiên không bất di bất dịch ,mà lại không thể chuyển
biến được một phần nào. Một khi con người ý chí mạnh ý thức được sự kém cỏi tiên
nhiên của thể chất thì có thể tu dưỡng để chế ngự bớt sự thô trọc hay ngăn chặn
phần thô trọc và phát huy thêm phần thanh khiết, bồi bổ khí lực để ngày thêm
tráng kiện.Loại khí đã được cải biến nhờ sức của con người được mệnh danh là khí
hàm dưỡng .Chẳng hạn , làn hơi không được mạnh ta có thể tập cho bớt yếu ,tiếng
nói quá nhanh và vấp váp ta có thể cố gắng luyện tập để nói thông thả ,gân xương
lệch lạc yếu đuối có thể kiên nhẫn huấn luyện để sữa chữa phần nào .Dấu hiệu bên
ngoài củ loại khí hàm dưỡng là thần khí an hòa ,tự tin ,nội tâm không bị giao
động mạnh vì các biến cố bên ngoài, thanh âm ổ trạng, từ tốn. Về phép đoán tướng
,khí chất hàm dưỡng được xem là chính khí ,người luyện được chính khí là kẻ
trượng phu quân tử .
c) Khí sở tập :
Khí chân nguyên tiên nhiên tốt đẹp ,khí đượcbảo trì mà buông thả khiến phần hùng
kiện ,cao khiết bị tiêu ma, phần ô trọc xấu xa được dịp tăng trưởng thì gọi là
Khí sở tập .Nói khác đi, có giọng nói trong trẻo ban đầu mà không gìn giữ ,trác
tán ăn chơi khiến cho giọng khàn nhỏ ,xương cốt mạnh mẽ trở thành cằn cỗi suy
nhợc, v.v...đều bị xếp vào loại khí sở tập. Dấu hiệu bề ngoài của khí sở tập là
cư xử thô bạo , giọng nói hấp tấp buông thả .Cũng bởi loại Khí này do ngoại cảnh
xấu tạo nên làm che mờ bảb chất tốt đẹp nguyên thủy hay không chịu cái tiến phần
khuyết điểm của bản chất nguyên thủy cho tốt đẹp hơn ,nên bị xếp vàp loại tà khí
,tượng trưng cho hạng tiểu nhân ,tâm tính hạ tiện.
IV- TƯƠNG QUAN GIỮA KHÍ VÀ SẮC :
Khí là chất nhựa sống chu lưu trong nội tạng và phối hợp khi Aâm Dương của vũ
trụ nên mắt nhìn không thấy. Bởi người ta không thể đi thẳng vào nội tạng để tìm
hiểu khí mà phải quan sát gián tiếp nó qua các biểu lộ ngoại diện. Nhìn dưới
nhãn quang tĩnh mà đặt nặng khía cạnh cấu tạo ta thấy giữa sắc và khí liên quan
mật thiết không thể tách rời. Về đặc điểm này hầu hết đều đồng ý ở điểm sau đây:
"Khi ở trong da thịt ,xương tủy chưa biết được điều đó rõ ràng thì gọi là khí
.Khi đã định rõ được vị trí ,xét được trạng thái qua việc quan sát làn da thì
gọi là sắc . Sắc và khí như vậy, bất khả phân."
Như thế ,ta thấy rõ ,dưới nhãn quang tướng học, sắc là phần ngoại biểu của khí khi quan sát bằng thị giác .Quan sát bằng thị giác dễ dàng hơn là vậy ,phần khí sắc( hiểu theo nghĩa quan sát khí sắc ) được trước tác rất nhiều và dành cho đại chúng.Thoạt kì thủy ,việc quan sát khí sắc chỉ có ý nghĩa giúp ta biết được kiện khang. Về sau ,từ các đời Tống, Nguyên người ta mới đề cập đền họa phúc ,may rỉu trong việc quan sát sắc.