QUAN XUÂN THỊNH SỐ TỬ VI KINH NGHIỆM PHẦN GIẢNG GIẢI
Mệnh thế do thiên quyền sở tác
Hạn hành phiêu ảnh dĩ ư thiên
Thế lộ phù trầm nan tri liệu
Hoàn nhân bất khả đoạt thiên quyền
Trần Đòan
Người ta đã đứng trong trần tục
Ai chẳng mong hạnh phúc vinh quang
Có đâu ước vọng đoạn tràng
Nổi chìm lận đận trên trường lợi danh
Song : Suy, Thịnh, Nhục, Vinh, Bỉ, Thái
Thọ, Yểu, cùng Thành, Bại do Thiên
Nên chi các bậc Thánh hiền
Đặt ra đẩu số giáo truyền hậu lai
Cho đời rõ : Cơ, Bài, Phúc, Họa
Định đoạt quyền Tạo Hóa khó thay
Một khi đọc rõ cuốn này
Hãy nên làm thiện, bớt nguồn ưu tư.
PHI LỘ
Trong quyển sách đầu chúng tôi đã trình bày sơ lược về khoa lấy và xem số Tử -Vi, có nhiều độc giả đã có ý tốt cho biết nhiều ý kiến hay và chỉ đoán những khuyết điểm chúng tôi rất cảm ơn. Trong số cũng có bạn kêu không hiểu được sách. Chúng tôi cũng đồng ý, song phàm đã là loại sách khảo cứu, tất phải mất chút công phu đọc kĩ, để có thể thuộc và hiểu những điều mình muốn biết được.
Nay ra nốt quyển hạ để đáp lại thịnh tình của tất cả các bạn , các giới yêu thích môn số Tử Vi được thêm tài liệu để cùng chiêm nghiệm. Tác giả lần này đã cố sưu tầm và giải thích rõ ràng cùng đầy đủ hơn.
Sau bao nhiêu thời gian biến hóa, từ thời phong kiến đến thời bị lệ thuộc, thiên hạ ta xem số một cách tiêu hao thời giờ, thường là chỉ dành cho những bậc quyền quý, vài nho gia nhàn rổi để nuôi ước trong lòng cái giấc mộng bất hủ : CÔNG HẦU KHANH TƯỚNG!
Nay ta đang ở thời kì cấp tiến hơn, ta xem hiểu khoa số Tử- Vi một cách khoa học hơn, để tẩy trừ những định kiến sai lầm và góp thêm tài liệu một ngày một đích xác hơn, sau khi đã kinh nghiệm, để các bậc thức giả, mến thích Tử- Vi rộng đường nghiên cứu thêm.
Phần nhiều những sách tán dóc, hay người viết không kính trọng lương tâm, ra bậy bạ làm mang tiếng cả đồng loại nó. Muốn duy trì cái hay, tránh cái dở và hiểu lẽ bí hiểm của trời đất cùng số mệnh, phải di ra ngoài mực sáo của các thầy tướng số mới được! Tất cả chúng ta ai cũng có thể học xem số, thứ nhất là TỰ XEM CHO MÌNH TRƯỚC NHẤT ĐÃ. Những điều ta biết ở dĩ vãng của ta sẽ dậy ta ở tương lai qua những điều ta đã nghiệm ở trong sách. Tự hiểu được số mình tức là đã tạo được tương lai mình tức là số- mệnh và sự-nghiệp mình đó. Duy có một điều là sự suy xét của mỗi cá nhân chúng ta quan trọng như thế nào mà thôi. Cổ -nhân tin số theo cái triết- lý TIỀN ĐỊNH, tức là mọi sự ở thế gian đã an bài sẵn sàng cả rồi. Nhưng người đời bây giờ tin như thế là THỐI LUI, tức là CHẾT, vì cuộc đời là lẽ chiến đấu kia mà. Đã được Tạo- hóa cho sống làm người ai mà không muốn tiến hóa, từ cao đến thấp, ai là người sẽ chịu dừng bước trên đường danh lợi? Trong chúng ta có lẽ ai cũng thắc mắc về cuộc đời"KHÔNG BIẾT TRƯỚC ĐƯỢC VIỆC SẼ TỚI ". Song việc làm, cứ tùy theo ý-trí, năng- lực, cùng lẽ phải mà làm, thất bại hay thành công ta tự an ủi ta là đủ.
Thay đổi là tiến hóa, và cuộc đời đổi đổi, thay thay là thế. Con người từ lúc ra chào đời cho đến lúc chết, phải ghi vào cuộc đời bao nhiêu trận tiến lui. Thực tế là thế, nhưng suy lẽ suy, thịnh, bĩ thái của giời- đất, con người vẫn phải chịu luật thiên- điạ tuần hoàn chi phối, có cái này thiếu cái kia, khi thăng khi trầm hình như con người KHÔNG THỂ THẬP PHẦN HOÀN HẢO ĐƯỢC.
Ai tài hoa như cô Kiều chúng chúng ta, mà lận đận ba chìm bảy nổi, hết lầu hồng lại trở lại lầu xanh thì chẳng là " trời xanh quen thói má hồng đánh ghen" hay sao! Âu là tại số mệnh cô Kiều phải như thế. Trong giới đất có các vị tinh tú, có Âm có Dương, có sinh, có khắc, biến hóa vô cùng, loài người cũng như tất cả động vật, thực vật, cùng cây cỏ trên thế gian đều sống ảnh hưởng. Từ xưa thuật Lý-số của cổ -nhân truyền lại, ngày nay chúng ta sưu tầm và chép lại và rút thêm ở công nghiên-cứu và kinh-nghiệm để bà con cùng thưởng thức một khoa học cũng hay và ví như một bài số- học khó khăn, cớ sao cứ phải cốnhắm mắt bài bác cho là mê-hoặc ?" phải chăng tâm-lý phần đông người đơì bây giờ là tâm-lý của kẻ đạo-đức giả, trông việc đời chỉ thấy toàn danh với lợi thôi ư? Đạo nho dậy người quân tử cứ theo chính nghĩa mà làm, lấy Tài, Đức của mình mà thắng thiên hạ dụt dè không làm ấy là ta sở-đắc.
"HỮU XẠ TỰ NHIÊN HƯƠNG"
Tiếng thơm muôn đời con người tới được đích đó là bất hủ. Kìa danh vang lừng tiếng nhất thời mà cuộc đời xú uế gian hùng, hương kia cũng biến tàn theo thời mà thôi!
Thời này là thời cải- cách, phục-hưng, thời nguyên- tử, thời cạnh tranh của sức mạnh. Loài người duy vật chưa biết đi tới đâu, sau cơn ác mộng vừa qua, người ta đã bước sang một kỉ nguyên mới mẻ hơn mà chúng ta đang sống. Luật đào thải đã loại những cái gì lạc hậu, lỗi thời, và biết đâu còn thay đổi nữa. Ai bảo giời đất không công ? Không có gì là trường cửu. Thuyết số-mệnh dậy ta tin ở một lẽ huyền bí chí công của Tạo- hóa là mọi việc ở trên đời đều có một hạn định cả. Còn đời thực tế vẫn là MẠNH ĐƯỢC YẾU THUA. Phải tranh đấu mới có thể sống được, và ai cũng phải tranh đấu hết, không nhiều thì ít. Vả đời lại còn có yếu tố : TÌNH CỜ may RỦI không sao giải nghĩa được.
Đã nhận là có số mệnh tức là có sinh, có tử, có suy, có thịnh, có thưởng có phạt, tất cả nó duy trì và làm thăng bằng cuộc sống của con người ta. Biết số- mệnh tức là không oán thán gì cả, nhận lấy cuộc đời với nụ cười tin cậy.
Quyển sách này ra với một đích đúng đắn, cống hiến các bạn đọc một khoa-học huyền- bí có tên tuổi trong lịch sử Cận-Á. Tác giả ý không hẹp hòi, tuy sống trong một cảnh đời thanh bạch, không hề dấu diếm một sự bí-mật nhà nghề gì, chỉ với công phu sưu tầm, trí ham thích và sau khi đã kinh nghiệm nhiều, viết ra cho bà con thưởng- lãm, không chút vụ lợi. Ước cho khoa Tử-Vi sẽ trởlên một ngày tinh -vi hơn để một ngày kia trở thành một môn học hữu- ích cho tinh thần và văn- hóa xã-hội cũng chẳng phải ngoa.
VĨNH HƯNG GIA .
MẤY LỜI NÓI ĐẦU
Đời người ba vạn sáu nghìn ngày, chẳng ngày nào giống ngày
nào, từ miếng ăn, đến hớp uống, cũng là Tiền- định.
Vậy tiền- định là gì ?
Truy tầm đâu ra?
Thưa chỉ có khoa Tử-Vi là rõ nghĩa tiền- định hơn cả.
Nhưng đáng tiếc, trải bao thế kỉ, cuộc đời đổi thay, sách vở thiếu sót, thất bản
tam sao, thiếu đủ khôn lường.
Xin lấy vài tỉ dụ dẫn chứng:
1. Người Tàu lấy Thiên bào, tính tháng Giêng là cung Tí vin câu : Tí hội Khai-
thiên.
2. Người mình lấy Địa-bàn, tính tháng Giêng là cung Dần, lấy nghĩa: Nhân sinh ư
Dần.
3. Họ an Thái- tuế theo tháng sinh.
4. Minh an Thái-tuế theo năm đẻ.
5. Họ tính đại- hạn sau, trước cung Mệnh, theo âm dương lưu.
6. Mình ghi đại-hạn khởi ngay ở Mệnh, cũng theo âm dương lưu.
Mờ mờ, mịt mịt, chẳng hiểu cối rễ căn- nguyên, vậy kẻ hậu-sinh chúng ta chỉ còn
biết đi
"NHẶT".
"NHẶT" từng đoạn văn, chép từng câusách, đem về khảo sát; cái gì "đúng" nhiều :
ta dùng ; cái gì "sai" nhiều : ta bỏ.
Với một khoa-số huyền-bí này, phải có tài, như : Bỉnh Khiêm, Gia-Cát, mới thấu
triệt hết lẽ.
Còn tôi, tự xét : tài sơ trí thiển, chỉ là một gã ham mê khảo-cứu Số-học : cố
đánh bạo viết quyển "Tử-Vi kinh-nghiệm" này, để cống hiến cùng các bạn đọc thân
mến.
Tôi mong rằng, sau này chúng ta sẽ thấy nhiều cuốn Tử- Vi giá trị ra đời, do các
bậc cao-minh uyên-bác viết ; để bảo tồn lấy môn Số-học quý giá này.
Trúc bạch, ngày 28 tháng 11 năm Kỷ Sửu
CẢ THỊNH
Cẩn đề
CHƯƠNG THỨ NHẤT
TÍNH CHẤT CÁC VỊ TINH TÚ
TỬ-VI: (Đế - tinh) thuộc Thổ. Trung thiên tinh, Nam Bắc Đẩu: Tị, Ngọ và Thân: vượng địa ; Tí, Hợi: hãm. Trung-hậu: Mệnh có Tử-Vi chung thân vô tai. Đàn bà Tử- Vi thủ Mệnh đông anh em, vượng phu, ích tử. Tử -Vi phùng Tả, Hữu, Long, Phượng là quân thần khánh hội, ngộ Kình, Đà, Không, Kiếp xấu ." Quan- Lộc,Dzi, Tài, Phúc -Đức rất tốt".
THIÊN- CƠ: (Thiện tinh) thuộc Mộc, Nam Bắc đẩu tinh: Tí, Ngọ, Mão Dậu đắc địa: Sửu, Tị, Mùi hãm: Dần, Thân bình thường. Đàn bà gặp cơ phùng Linh, Hỏa rất xấu. Cơ ngộ Quyền là người có quyền biến: Tối kị gặp Hình, Sát, Linh, Hỏa "chủ Huynh - đệ" nhiều anh, chị em.
THÁI-DƯƠNG: (Quí tinh) thuộc Hỏa, Nam Bắc đẩu, thông minh; từ Dần đến Thân tốt, gặp Đào, Hồng, Hỷ là "Tam minh" rất sáng ; gặp Riêu, Đà, Kỵ là " Tam ám" rất tối. Ở Quan- Lộc rất tốt. Thái-Dương đóng ở Tuất, Tý tuy gọi là hãm nhưng gặp nhiều quí tính vẫn hiển-đạt như thường, vì Thái-Dương ở Dương cung "Thái-Dương ở Hợi gọi là : Nhật trầm thủy để ", Mệnh đóng ở đấy hay vất vả về phu thê, con cái".
THÁI-ÂM: (phúc tinh) thuộc Thủy, Nam Bắc đẩu tinh, đóng ở Điền, Tài rất tốt : thông- minh, hòa- nhã. Từ Dậu đến Sửu tốt : gặp Đào, Hồng, Hỷ là " Tam minh", gặp Riêu, Đà, Kỵ là"Tam ám". Đàn bà Thái-Âm thủ Mệnh tối quí. Thái-Âm đóng ở Mão, Tỵ tuy gọi là hãm nhưng gặp nhiều quí tinh vẫn hiển-đạt như thường; vì Thái-Âm đóng ở Âm-cung. Hai sao Âm, Dương là mặt trời, mặt trăng dầu hãm địa, gặp Tam-không lại sáng ra, nếu đắc-địa ngộ Tam-không lại mờ đi." Tuần-Không, Địa-Không, Thiên -Không" gọi là Tam- không.
THIÊN- PHỦ: (Linh tinh) thuộc Thổ, Nam Bắc đẩu tinh đóng ở Điền, Tài rất tốt, Hợi, Tí, Tỵ, Ngọ đắc địa. Trung-hậu hiền lành gặp Hóa-khoa rất tốt. Đóng Mệnh chung thân vô tai. Sao Thiên-Phủ tựa như tờ giấy thấm ; gặp sao tốt rất tốt, gặp sao xấu rất xấu, gặp Tam-không lại càng xấu.
THIÊN- ĐỒNG : ( Phúc tinh) thuộc Thủy và Kim, Nam đẩu tinh, hãm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi; nhưng tuổi Đinh, Tân càng tốt. Hợp Mệnh đàn bà và đóng ở Phúc-Đức rất tốt.
THIÊN-LƯƠNG : ( Ẩm tinh) thuộc Thổ và Mộc, Nam, Bắc đẩu tinh "chủ thọ". Ở Tí, Ngọ, Dần, Thân, Thìn, Tuất rất tốt. Trung- hậu, từ- tâm, đàn bà thiên-Lương thủ mệnh tối quí. Thiên-Lương gặp Song-Hao Thiên-Hình và Kiếp, Sát tối kỵ.
CỰ-MÔN : ( Âm tinh) thuộc Thủy, Bắc đẩu tinh "chủ thị- phi", gặp cát tinh tài hoa, lý sự ; gặp hung tinh gian trá, lắm điều. Tí, Ngọ, Mão, Dậu đắc địa gặp Song-Hao rất tốt; gặp Hóa-Lộc thì giầu, gặp Lộc-Tồn bình thường.
THIÊN-TƯỚNG :( Ấn tinh) thuộc Thủy, Nam đẩu tinh, chủ
Quan-Lộc, tối kỵ gặp Tuần, Triệt.
VŨ-KHÚC : ( Tài tinh) thuộc Kim, Bắc đẩu tinh, chủ Tài- Lộc ; ở Thìn, Tuất, Sửu,
Mùi thêm Khoa, Quyền tối quí.
THẤT-SÁT : ( Tướng tinh) thuộc Hỏa, Kim, Nam đẩu
tinh, "ngộ Đế vi Quyền" tối tăm hãm
Sửu, Mùi, gặp quí tinh võ cách hiển danh, gặp Kình, Đà, Linh, Hỏa hãm : phi yểu
tắc bần.
PHÁ-QUÂN : ( Hao tinh) thuộc Thủy, Bắc đẩu tinh, võ nghệ tài năng ăn to nói lớn, ở Tử-tức, Phu-thê, Điền-Trạch ngộ Tuần, Triệt rất xấu.
LIÊM-TRINH : (Sát Tù-tinh) thuộc Hỏa, Bắc đẩu tinh. Liêm khiết không thay đổi chí hướng, ở Sửu, Mùi hãm: Tị, Hợi gặp quí tinh rất tốt : nếu gặp đa Hung tinh và Sát tinh hãm bôn-ba lận-đận. Liêm- Trinh đóng ở Tị Hợi gọi là Tù tinh, ở Quan-Lộc rất tốt, ở Mệnh gọi là " Đào hoa thứ hai".
THAM-LANG :( Đào Hoa-tinh) thuộc Thủy và Mộc, Bắc đẩu tinh "
ở Phúc-đức gặp Tràng-Sinh, Đế-Vượng và sao Dưỡng tối quí". Nếu Tham gặp quí tinh
là Phúc- tinh, nếu gặp ác tinh là Họa-tinh.
Tóm lại : Bộ Sát, Phá, Tham, Liêm tối cần Hóa- Khoa.
Bộ : Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương tối cần Hóa- Lộc.
Bộ : Tử - Phủ, Vũ-Tướng tối Kỵ Kinh, Đà, Không, Kiếp và Song Hao.
Bộ : Cơ, Cự, Mão, Dậu, Tí, Ngọ tối cần song Hao hoặc Hóa-Lộc.
Bộ Âm, Dương tối cần Tả Hữu, Đào, Hồng, Quyền, Lộc ; tối kỵ Đà, Riêu, Hinh, Kiếp
và Hóa
kỵ hãm.
BÀNG -TINH
TRÀNG- SINH : Mệnh, Thân và Phúc- Đức tốt : ở Hợi tối
hãm, nhưng gặp quí tinh đắc cáchgọi là " Tuyệt Sử phùng Sinh". Nếu ngộ Thiên Mã
thời thăng trầm.
MỘC-DỤC : chỉ sự tắm gội, hám cải, u mê, dâøm dục; ở Giải-Ách hay bị bệnh tê
thấp.
QUAN-ĐỚI : chỉ sự mũ áo : ở Quan-Lộc gặp quí tinh công danh tiến đạt, nếu ngộ Ác
Sát tinh; hạn gặp : trăng trói, có khi phải tự vẫn.
LÂM-QUAN : Khoe khoang, giáng điệu: gặp sao xấu hay phải rắc rối về đường làm
ăn.
ĐẾ-VƯỢNG : Mệnh, Thân, Phúc- Đức tốt. Gặp Tử-Vi có tài thủ lĩnh.
SUY, TUYỆT, TỬ: chỉ sự đồi bại, ở Phúc-Đức tối kỵ. Sao Tử ở Điền, Tài là : có
của chônhoặc là người tần- tiện ; ở Phúc-Đức gặp thêm Sát-tinh, trong họ có
người chết trận, chết đường.Sao Tuyệt gặp Hỏa ở Hợi ; mà Mệnh ở đó; là người chí
khí hiên ngang.
BỆNH : ở Ách tối kỵ, gặp thêm Bệnh Phù, hay ốm đau.
MỘ : ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi gặp Quyền mà Phúc- Đức ở đấy là nhà đại đức, bốn đời
vinhhiển.
THAI : chỉ sự sinh đẻ ; ở Tử-tức gặp quí tinh nhiều con, gặp Sát tinh đẻ nhiều
nuôi ít, hoặc đẻnon, đẻ khó. Thai và Mộc Dục chiếu Mệnh : có học mà không thành
tài.
DƯỠNG : sự nuôi nấng, phù trì. Ở Tử- đức có con nuôi. Ơû Mệnh gặp Cát tinh,
nhiều ngườiyêu mến, nuôi súc vật chóng lớn, làm nghề chăn nuôi phát đạt.
THÁI-TUẾ: (hỏa) gặp Xương, Khúc, Khoa, Quyền, văn-chương đanh thép, nếu gặp Kỵ
lắm điều, chủ quan tụng miệng tiếng, đa đoan.
THIẾU-DƯƠNG, THIẾU-ÂM : thông minh gặp Khoa rất tốt, biểu hiện mặt trời, mặt
trăng thứ hai.
TANG-MÔN ( Mộc) BẠCH-HỔ ( Kim) chủ tang thương gặp Khốc, Hư, Song Hao lại càng
xấu, Bạch- Hổ ngộï Tấu-Thư : văn học hiển đạt ( hổ đội hòm sắc).
QUAN-PHÙ: ( hỏa) gặp sao xấu, miệng tiếng; sao tốt: được người phù giúp.
TỬ -PHÙ, TRỰC- THU : biểu hiện sự chết chóc chìm nổi long đong.
TUẾ-PHÁ: biểu hiện sự phá phách, làm ngang.
LONG ĐỨC, PHÚC ĐỨC: sao lành, vui vẻ, phù giúp.
ĐIẾU-KHÁCH: (Hỏa) tính chất như sao Tang Môn : gặp Mã, Khốc : rất hay, khác nào
ngựa hay gặp chủ tốt.
LỘC-TỒN ( Thổ) BÁC SĨ ( Thủy) : vui vẻ thanh nhàn, ở Mệnh: ung dung no ấm, giữ
bền của:ở Phúc Đức ngộ Cô, Quả, Kiếp, Không, thì thân mình cô đơn, trong họ ít
đinh.
LỰC-SĨ :( Hỏa) : chủ binh quyền gặp Kình, Dương rất đẹp: là người dũng mạnh.
THANH-LONG: ( Thủy) Chủ Hỷ khí, vui vẻ, gặp Hóa Kỵ tức là rồng mây gặp hội
(Thìn, Tuất, Sửu, Mùi : đắc địa).
ĐẠI, TIỂU HAO: ( Hỏa) Mão, Dậu, Dần, Thân và Tí, Ngọ, Tị, Hợi: hãm địa. Ở Mệnh
lyhương, tán tài, nếu đắc-địa không gặp chính tinh, hạn gặp hoạch phát.
TƯỚNG QUÂN : (Mộc) : chủ sự binh quyền, gặp Hình, Ấn, Khốc, Mã rất hay, tối kỵ
gặp Tuần, Triệt.
TẤU-THƯ ( Kim) : nói ngọt, nịnh hót, văn từ, gặp Hổ rất đẹp nếu là đàn ông, gặp
Hồng rất đẹp nếu là đàn bà.
PHI-LIÊM ( Hỏa) HỶ-THẦN ( Hỏa) vui vẻ, thịnh phát : Phi gặp Hổ : Hổ bay, Hỷ gặp
Phượng, Phượng múa.
BỆNH-PHÙ : bệnh tật; gặp Hình, Kỵ cùng ở Ách, hay có bệnh phong sang.
PHỤC BINH ( Hỏa) : gặp sao tốt, có tài phò tá ; gặp sao xấu, có tính gian tà.
QUAN PHỦ : gặp sao xấu, xấu ; gặp sao tốt, tốt thêm.
KÌNH- DƯƠNG, ĐÀ-LA
KÌNH DƯƠNG thuộc Kim ( Phù trâm Tinh) Thiên hình thứ hai, ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi
đắc- địa.
ĐÀ LA thuộc Kim ( Trọ lực tinh) Hóa-Kỵ thứ hai Dần, Thân, Tị, Hợi, miếu vượng.
SAO KÌNH, ĐÀ ( Vũ tinh) : đắc địa hoạch phát, hãm chủ hình thương khốn khổ. Mã
ngộ Đà La khôn ngoan sảo trá
Hổ ngộ Kinh-Dương mưu trí anh hùng.
THIÊN- KHÔNG (Hỏa) Tí, Ngọ, Mão, Dậu, đắc địa, chủ uy dũng, cứng cổ, gian hùng.
Lộc Tồn, Hóa- Lộc ngộ Thiên-
Không, đồng tiền tán tụ bất thường. Về tuổi già gặp sao Thiên-Không bất lợi.
TẢ, HỮU (Thổ) Thìn, Tuất, Sửu, Mùi : đắc địa; với sao tốt, tốt thêm, đi với sao
xấu, giúp cho xấu thêm.
XƯƠNG (Kim), KHÚC (Thủy) : văn chương thông minh, nếu gặp sao tốt; dâm tinh
(khoa giáp tinh) nếu gặp sao xấu (đàn bà)
Ơû Thìn, Tuất tối hãm (tuổi Tân, Đinh không can gì) gặp Thái, Tuế, Khoa, Quyền,
văn chương, biện thuyết đi với Thương- sứ tối kỵ có tài mà không đạt. Thân cư
Thiên dzi, giáp Thương- sứ, Khúc xương, hạn tới Thiên dzi tối độc.
KHÔNG KIẾP : (Hỏa) hung bạo; gan góc ở Tỵ, Hợi, gặp Khoa, Quyền hoạnh đạt tung
hoành.
THIÊN Thương : (Thủy) gặp Tang môn xấu, (hạn Tang Thương).
THIÊN SỨ : (Thủy) gặp Tang, Cơ, hay bị ngã, hoặc đòn đánh.
LONG, PHƯỢNG : ở Sửu, Mùi đắc địa, chủ hỷ sự ; gặp Riêu, Hỷ khác nào cá gặp
nước, rồng gặp mây.
THAI TỌA : đài các, bệ vệ, gặp Tả, Hữu rất đẹp; tượng trưng đồ đạt, quần áo.
QUANG, QUÍ : (Quí tinh) ở Sửu, Mùi : gặp Tả, Hữu, Thanh- Long, Khôi, Việt, Hoa
Cái, Hồng Loan: thượng cách .
Phú đoán : Quí, Aân, Thanh, Việt, Cái, Hồng.
Trai cận cửu trùng, gái tắc cung phi, nếu gặp Khôi có tài phụ chính.
KHỐC HƯ : chủ sầu bi, Tí, Ngọ đắc địa (tiền chở hậu thành) gặp Hình, Mã võ cách
thành danh.
THIÊN TÀI : sao phù suy không phù thịnh, tựa như núi Thái Sơn gặp sao xấu cản
xấu; gặp sao tốt cản tốt. Thí dụ : gặp Aâm dương đắc địa làm mờ vẻ sáng; Aâm
dương hãm; trái lại : tăng vẻ sáng.
THIÊN THỌ : (Thọ tinh) ở Mệnh, Giải ách, Phúc đức : tốt.
Thai phụ phong cáo : (Văn tinh) bằng sắc; ở giải ách vô vị.
THIÊN ĐỊA, GIẢI THẦN : 3 sao chủ sự giải hung; ở Điền tài xấu.
THIÊN ĐỨC, NGUYỆT ĐỨC, PHÚC ĐỨC : đóng đâu tốt đấy (Phúc tinh).
THIÊN MÃ : (Hỏa) tài năng họat động, bôn ba; ở Tị đắc địa, tối kỵ Tuần, Triệt
(hạn gặp Thiên mã hay đi xa, hoán cải).
HỒNG LOAN, THIÊN HỶ (Thủy) vui vẻ, tuổi trẻ gặp thời hay, về già gặp thời : hữu
hỷ, hữu thương (vừa vui vừa buồn).
ĐÀO HOA (Thủy) Tý, Mão đắc địa, Thủ Mệnh không đẹp, chóng gặp, chóng phai, chiếu
Thân Mệnh rất đẹp, vui vẻ, tươi sáng. Về già gặp Đào hoa, Thiên không, thời xấu.
HÓA LỘC (Mộc) Tý, Ngọ, Mão, Dậu đắc địa : gặp Lộc Tồn gọi là Song Lộc cách.
Nhưngcùng ở một cung không đẹp, vì Lộc tồn là Thổ, vậy Mộc khắc Thổ.
Thí dụ : Mệnh ở Ngọ, Lộc Tồn ở Dần, Hóa Lộc ở Tuất rất hay; nếu Lộc Tồn ở Dần,
Hóa Lộcở Tý không đẹp bằng cách trên; là vì hai Lộc không Giao Nhau; phải Nhìn
Nhau rồi mới chiếu lên
Mệnh mới tuyệt quí (Hình Tam giác).
HÓA QUYỀN (Thổ) Thìn, Tuất, Sửu, Mùi : đắc địa; gặp Tả, Hữu, Hoa Cái tối quí.
Tuổi Kỷcần có Hóa- Quyền.
HÓA KHOA (Kim) Dần, Thân, Tị, Hợi : đắc địa; gặp Sát, Phá, Tham, Liêm tối ái
(Sao này làdấu vị giải sự hung)
HÓA KỴ (Kế đô tinh) (Thủy) chủ suy nghĩ, thâm trầm, tranh cạnh, mưu trí. Hợi,
Tý, Dần,Mão : miếu địa (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi vượng địa).
Người tuổi Dương sao Hóa Kỵ phải ở cung Dương.
Người tuổi Aâm sao Hóa Kỵ phải ở cung âm.
Thí dụ : tuổi Hợi (Aâm tuế) Hóa Kỵ ở Sửu (âm cung) thế là tuyệt cách, nhất là
Mệnh ở đấy, màgặp nhiều quí tinh. (Tóm lại : sao Hóa Kỵ là sao nịnh hót, đi với
tốt làm tốt, gặp sao xấu làm xấu).
(Đóng ở Điền Tài giữ bền của).
Bốn sao Hóa kể trên, không nên câu nệ, hơn kém về chỗ đắc địa, hãm địa, miễn hồ
<< Được việc >> hay << Không được việc>>.
Thí dụ : Quyền ở Tuất, (đắc địa) mà Giải ách đóng đấy, là << Không được việc>>.
Quyền ở Tý (hãm) nhưng Quan, Lộc đóng đấy là << Được việc>>.
THIÊN HÌNH (Hỏa) Vũ tinh, Tài tinh, Kiêm sát tinh ; Dần, Tuất, Mão, Dậu : đắc
địa; gặpBinh, Hình, Tướng, Aán tối quí (võ công) (đóng ở Điền, Tài rất tốt).
THIÊN RIÊU (Thủy) Quái ác tinh, khi mờ khi tỏ, huyền ảo; gặp Long, Phượng tối
quí.
THIÊN Y : sao bệnh tật gặp Tả, Hữu, Quan, Phúc quí nhân và Thiên Hình; làm thầy
thuốc códanh.
KHÔI, VIỆT : (Hỏa) quí tinh; gặp Đồng, Lương, Hồng, Tấn : tối ái.
QUỐC ẤN : đi với Tướng, Hình rất đẹp, nếu ngộ Tuần, Triệt là ấn mẻ, dẫu có gặp
công danhnhưng không bền.
ĐƯỜNG PHÙ : Quốc Aán thứ 2; gặp Tướng, Tấu, Long, Phượng và Quan Phù : đi tu
hoặc làmthầy cúng có danh tiếng; ở Điền Trạch gặp quí tinh có nhà to, đẹp và giữ
bền cơ nghiệp.
HỎA TINH: (Hỏa) (lửa nhân tạo) chủ thiêu đốt, hung bạo, uy cương Dần, Mão, Tị,
Ngọ :
vượng : Hợi, Tý : hãm. (Đờn bà gặp Linh tinh và Hỏa tinh không tốt) ở Điền
Trạch, Tài Bạch rất xấu; tán tài, cháy nhà, nếu gặp nhiều sao Thủy không đáng
ngại.
LINH TINH: (Hỏa) (lửa sấm sét, điện lực) Tý, Ngọ : đắc địa, Thân, Dậu : hãm; đi
chung với sao Thiên, Việt: tối kỵ nghĩa là: Búa Sấm sét có điện, lửa.
Hai sao Linh, Hỏa cũng như Hóa Kỵ nghĩa là : Dương Tuế phải ở Dương cung, Aâm
Tuế : âmcung.
CÔ THẦN, QUẢ TÚ : (Mộc) chủ cô đơn, lạnh lẽo, âm thầm, hiếm hoi.
Ở MỆNH : Cô Thần, Quả Tú hai saoThiết thân chẳng dám, bạn nào mấy ai!
Ở TỬ TỨC : hiếm hoi (Cô, Quả) mà ngộ Thiên Hình
Quí tinh trước cửa đầy sàn quế hòe.
Nhưng gặp Kim tinh, thời chế bớt tính hung hãn của sao Cô, Quả : cũng có con,
thường không được nhiều con.
LA, VÕNG : chủ kìm hãm, gặp Hung tinh lại càng hay, hạn đi tới La, Võng (cung
Thìn, Tuất) hay rắc rối, cản trở.
THIÊN QUAN, THIÊN PHÚC : chủ sự cứu giúp từ tâm.
HOA CÁI : tượng trưng cái lọng, gặp Hóa Quyền, Tả, Hữu tối qúi.
PHÁ TOÁI : chủ phá ngang, gặp Vũ, Riêu : ngọng. Thêm Việt, kỵ thời câm. Vũ,
Riêu, Phá Toái ở gần
Lại có Việt, Kỵ mười phần miệng câm.
(Hỏa) Hợi, tối hãm, gặp Thiên Lương, Thiên Cơ, và Song Hao, Hình, tối kỵ; có khi
phải bị đâm, giết. (Sao Địa Kiếp thứ hai).
ĐẨU QUÂN : (Kim) sao bảo thủ, ở Điền, Tài rất tốt. Ơû Tử Tức hiếm con. Ơû Quan
Lộc gặp
Quí tinh rất tốt. (gặp Tử Vi là Đế có quần thần; bề tôi chầu vua).
LƯU HÀ : (Thủy) gặp Thanh Long (rồng gặp nước mà vẩy vùng) gặp Hao, Kiếp, Sát,
Hình hãm địa : tối độc; có khi bị hung sát. Gặp Cự, Kỵ : đi sông nước đề phòng.
THIÊN TRÙ : tượng trưng sự được ăn uống (gặp Lộc : tốt).
LƯU NIÊN VĂN TINH : tượng trưng cho văn học (gặp Khoa, tốt).
Để bổ khuyết cuốn Tử Vi kinh nghiệm
QUYỂN THƯỢNG
THIÊN TRÙ (ăn uống) LƯU NIÊN VĂN TINH (văn học đỗ đạt)
Giáp, Đinh ở Tị Giáp ở Tị
Ất, Tân, Mậu __Ngọ Bính, Mậu __ Thân
Bính __ Tý Canh __ Hợi
Canh __ Dần Nhâm __ Dần
Kỷ __ Thân Ất __ Ngọ
Nhâm __ Dậu Đinh, Kỷ __ Dậu
Quí __ Hợi Tân __ Tý
Quí __ Mão
BẢN ĐỒ HOA GIÁP (60 năm) xem :
Tuổi nào, thuộc Mệnh gì ?
Và so đôi tuổi : vợ chồng, cha con, anh em, bạn bè : có hợp nhau không ?
Giáp Tí kim chất vàng
Ất Sửu hải trung kim vàng dưới bể
Bính Dần hỏa lửa
Đinh Mão lô trung hỏa lửa trong lò
Mậu Thìn mộc chất gỗ
Kỷ Tỵ đại làm mộc cây trong rừng lớn
Canh Ngọ thổ đất
Tân Mùi lộ bàng thổ đất ngã ba đường
Nhâm Thân kim chất vàng
Qúi Dậu kiếm phong kim thanh kiếm vàn
Giáp Ngọ kim chất vàng
Ất Mùi sa trung kim vàng trong cát
Bính Thân hỏa lửa
Đinh Dậu sơn hạ hỏa lửa dưới chân núi
Mậu Tuất mộc chất gỗ
Kỷ Hợi bình địa mộc cây mộc đồng bằng
Canh Tý thổ đất
Tân Sửu bích thượng thổ đất trên vách
Nhâm Dần kim chất vàng
Quí Mão kim bạch kim vàng pha vàng trắng
Giáp Tuất hỏa lửa
Ất Hợi sơn đầu hỏa lửa đầu núi
Bính Tý thủy nước
Đinh Sửu giá hạ thủy nước cuối giòng
Mậu Dần thổ đất
Kỷ Mão thành đầu thổ đất trên thành
Canh Thìn kim chất vàng
Tân Tỵ bạch lạp kim cây đèn nến bằng vàng
Nhâm Ngọ mộc chất gỗ
Quí Mùi dương liễu mộc gỗ cây liễu
Giáp Thìn hỏa lửa
Ất Tị phú đáng Hỏa lửa ngọn đèn to
Bính Ngọ thủy nước
Đinh Mùi thiên hà thủy nước sông trên trời
Mậu Thân thổ đất
Kỷ Dậu đại dịch thổ khu đất lớn
Canh Tuất kim chất vàng
Tân Hợi thoa xuyến kim vàng thoa xuyến
Nhâm Tý mộc chất gỗ
Quí Sửu tang đố mộc gỗ cây dâu
Giáp Thân thủy nước
Ất Dậu toàn trung thủy nước giữa suối
Bính Tuất thổ đất
Đinh Hợi ốc thượng thổ đất nền nhà
Mậu Tý hỏa lửa
Kỷ Sửu tích lịch hỏa lửa sấm sét
Canh Dần mộc chất gỗ
Tân Mão tùng bách mộc gỗ cây thông
Nhâm Thìn thủy nước
Quí Tị trường lưu thủy nước chảy mạnh
Giáp Dần thủy nước
Ất Mão đại khê thủy nước suối lớn
Bính Thìn thổ đất
Đinh Tị sa trung thổ đất cát
Mậu Ngọ hỏa lửa
Kỷ Mùi thiên thượng hỏa lửa trên trời
Canh Thân mộc gỗ
Tân Dậu thạch lựu mộc gỗ cây thạch lựu
Nhâm Tuất thủy nước
Qúi Hợi đại hải thủy nước trong biển lớn
Chú giải : Bản đồ Hoa giáp có 60 năm, trong đó chia làm
lục giáp :
1. Giáp tí
2. Giáp ngọ
3. Giáp tuất
4. Giáp thìn
5. Giáp thân
6. Giáp dần
Thí dụ : Tuổi Tân Hợi, ở trong khu vực giáp thìn; hoặc gọi là << con nhà Giáp
thìn>>.
Ta thường nói : lưỡng kim, kim khuyết; lưỡng hỏa, hỏa tuyệt>> là làm sao?
Như trên đã biết có nhiều thứ Kim, nhiều thứ Hỏa; vậy phải phân biệt trong những
trường hợp nào mới có thể xung khắc nhau được.
Chồng << thoa xuyến kim>> vợ cũng << thoa xuyến kim>> không can gì! Là vì : vàng
đeo với vàng đeo. Trừ khi : gặp Kiếm phong kim thì không tốt; hoặc 2 người cùng
Kiếm phong kim, tất phải có chuyện chẳng lành; vì sao ? Vì, Kiếm phong kim đụng
vào nhau, tất có một thanh Kiếm phải : gãy, mẻ.
Lại như <> có nghĩa là, so sánh lửa trên trời với lửa ngọn đèn;
thì lửa ngọn đèn tất phải lu mờ; nhưng trái lại lửa của hai ngọn phú đáng thì
lại thêm sáng.
Lại như câu << Kim khắc Mộc>>, chỉ có ảnh hưởng không hay : khi nào thanh Kiếm
vàng gặp Mộc; còn như vàng thoa xuyến gặp Mộc, quyết chẳng hề! Một lẽ rất giản
dị : là vàng đeo, đẽo chặt sao được gỗ cây liễu, cây thông. Cứ như thế mà suy,
chớ nên cố chấp.
NGŨ HÀNH TƯƠNG SINH NGŨ HÀNH TƯƠNG KHẮC
Kim sinh Thủy Kim khắc
Mộc
Thủy __ Mộc Mộc __ Thổ
Mộc __ Hỏa Thổ __ Thủy
Hỏa __ Thổ Thủy __ Hỏa
Thổ __ Kim Hỏa __ Kim
Chú giải : Nhiều người yên trí là hợp ngũ hành tương sinh là
tốt. Nhưng có nhiều trường hợp vô vị.
Chồng Mệnh << Bích thượng thổ>> gặp vợ Mệnh Kim thì chẳng ích gì; vì rằng : <<
đất bức vách>> sinh sao được ra vàng; hoặc << phú đăng hỏa>> (lửa ngọn đèn) giúp
ích sao được << khu đất lớn >>