Theo thống kê của các nhà
khảo cổ học, cho đến nay trên địa bàn của 15 tỉnh và thành phố ở nước
ta đã có gần 60 mộ có xác ướp được khai quật. trong số gần 60 người mà
các nhà khảo cổ "tìm gặp" đó có mặt hầu hết những nhân vật có vị trí
cao quý nhất của xã hội đương thời: Từ vua cho đến các quan thượng
thư, đại tư đồ, hoạn quan, bà chúa, cung tần mỹ nữ... ngôi mộ có niên
đại sớm nhất được phát hiện ở Cẩm Bình- Hải Hưng vào thế kỷ thứ 15.
Ngôi mộ có niên đại muộn nhất được chôn vào đầu thế kỷ này. nhưng
nhiều nhất và được xử lý kỹ thuật tốt nhất chỉ có các mộ chôn trong 3
thế kỷ 16, 17,và 18. Đó cũng là thời kỳ bùng nổ của loại hình thức
táng này. Cấu trúc của mộ xác ướp rất thống nhất về các nguyên tắc cơ
bản: Ngoài cùng là gò mộ đắp đất, trong cùng gò có một quách hợp chất
màu xám rắn chắc làm bằng vôi, cát mật, giấy gió, dầu thông. Để cho
quách thêm vững chắc người ta thường đổ nắp có hình vòm cung trùm ra
ngoài thành quách. Bên trong quách hợp chất, thường có thêm lớp quách
gôc. Quách gốc có thể cách quách hợp chất 5 cm. khoảng trống ấy có thể
dùng làm vật liệu hút ẩm hoặc giữa hai lớp không có khoảng cách do khi
đổ hợp chất, quách gỗ được coi như một mặt của cốp pha. Ở những mộ chưa bị phá hoại, kỹ thuật chôn cất rất cẩn thận
thì xác và đồ tùng táng vẫn còn được bảo quản nguyên vẹn. Thi thể tuy
có bị mất nước teo đét lại, nhưng màu da không bị đen, các khớp chân
tay còn mềm mại, phần lông không bị rụng hỏng. Điều đáng chú ý là, khi
khám nghiệm tử thi, các nhà nhân chủng học và y học không tìm thấy
bất kỳ một dấu vết mổ xẻ nào trên thân thể. Như vậy là, ruột và óc
người chết đã không bị mổ lấy ra như kỹ thuật ướp xác của người Ai
Cập thời cổ. Tháng 8 năm 1984, một ngôi mộ xác ướp được phát hiện trên cánh đồng Mả Vôi thuộc xã Cát Hanh huyện Phù Cát, tỉnh Nghĩa Bình.Thấy gì qua 60 ngôi mộ có xác ướp ở Việt Nam?
Bên trong quách gỗ là quan tài được đóng liền thành một
khối ngoài có sơn phủ kín. Quách trong đều được làm bằng gỗ thơm (Ngọc
am).
Trên mặt quách thường có một tấm minh tinh bằng dụ đỏ thêu tên họ của người quá cố bằng kim tuyến.
Cách sắp xếp trong lòng quàn tài cũng tuân theo một quy
tắc chặt chẽ. Đóng quan thường có một lớp chè dày khoảng 4,5cm. Trên
lớp chè có một tấm ván mỏng có khoét rỉ ra chẩy xuống lớp chè dưới đáy
quan. ở loại hình táng thức này, người quá cố thường mặc rất nhiều
quân áo. Bà Phạm Thị Nguyên Chân mặc tới 35 áo, 18 váy. Thi thể còn được
bọc lại bằng hai lớp vải liệm: tiểu liệm và đại liệm. Ngoài mỗi lớp
vải liệm còn có dây lụa buộc chặt chẽ.
Để tăng độ hút ẩm và cho thi thể khỏi bị xô dịch, người ta
còn dùng rất nhiều gối bong chèn dưới lòng quan. Có mộ đã dùng tới 49
chiếc gối bông.
Đồ tùng táng trong loại hình táng thức này rất nghèo nàn,
thường trong mộ chỉ thấy các trái gốm nhỏ đựng móng chân, móng tay, răng
rụng, trầu không, thuốc lá, hộp phấn, quạt giấy, đôi khi còn có thêm
cuốn sách Kinh.
Tuyệt đại bộ phận các mộ xác ướp thơi Lê -Trịnh đã được khai
quật, không tìm thấy bất kỳ một đồ tùng táng nào quý giá như vàng,
bạc, ngọc, ngà.
Nguyên nhân nào đã làm cho xác và đồ tùng táng không bị
tiêu huỷ? Sau nhiều năm nghiên cứu, các nhà khảo cổ, nhân chủng học và y
học hiện đại đã đi đến kết luận là, có hai nguyên nhân cơ bản:
Một là, mộ được chôn cất trong môi trường kín tuyệt đối.
Không có hiên tượng trao đổi bên trong và bên ngoài. Quan, quách (hai
lớp) đã đóng vai trò chủ đạo trong yêu cầu kỹ thuật này. Ngoài ra, còn
cần phải hạn chế tới mức tối đa không gian trống trong lòng mộ.
Hai là, dầu thơm cũng là một yếu tố quyết định. Dầu thơm đã
làm sạch vi khuẩn, dầu trộn với hợp chất, đổ vào lòng quan, quan tài
thơm... đã ngăn không cho vi khuẩn, kể cả các vi khuẩn yếm khí tiếp
tục hoạt động huỷ hoại xác.
Ngoài ra các phương pháp chống ẩm bằng chè, quần áo, tẩm liệm, gối bông cũng đã góp thêm mặt yếu tố gìn giữ xác.
Những kết quả khoa học đào tìm được và các giám định khoa
học vừa được trình bày cho thấy: Mộ xác ướp Việt Nam không có gì là bí
ẩn cả. mộ xác ướp, một di sản văn hoá cần được bảo vệ
(Hoàng Linh- Trích "Du lịch Việt Nam" số 43)Về ngôi mộ xác ướp mới phát hiện ở Cát Hanh.
Ngôi mộ được táng theo lối trong quan ngoài quách. Quách
được xây dựng bằng một hợp chất gồm vôi sống, cát và một số chất kết
dính như nhiều ngôi mộ đã phát hiện thời Lê Trịnh và thời Nguyễn. Quan
tài bằng gỗ, mặt ngoài trát một lớp ngăn thấm rất kín. Quan tài có
chân và nắp là một nửa thân gỗ còn nguyên lớp vỏ bào không nhẵn.
Thi hài chôn trong mộ là một phụ nữ khoảng 60 tuổi, cao
154,5 cm, chân trái bị gãy và liền lại khi còn sống nên ngắn hơn chân
phải 3,1cm. Thi thể hầu như còn nguyên vẹn và các khớp xương, nhất là
xương sống và các khớp vai còn có thể cử động rất mềm dẻo.
Y trang phục của người chết gồm ba lớp áo mặc, khăn nhiễu
đội đầu, đội hài da, một chiếc áo dài mầu đen kê dưới tay phải. Vải
liệm gồm 7 súc đặt theo chiều dài và súc đặt theo chiều ngang.
Đáy quan tài có một lớp trấu và lúa không sấy, chất gạo
còn khá tốt. Giữa nắp quan tài và xác là một lớp là chuối khô. Giấy
bản chèn cũng buộc bằng dây chuối khô. Đặc biệt, quan tài chứa một
dung dịch ngâm giữ xác có màu nâu trong. Thành phần hoá học của dung
dịch chưa xác định được, nhưng không có thuỷ ngân (Hg) arsenic (as) và
tinh dầu thông.
Căn cứ vào gia phả của dòng họ và sự ghi nhận của thân
nhân thì chủ ngôi mộ là bà Nguyễn Thị Trọng, vợ thứ ba của ông Lê Văn
Thể.
Ngôi mộ ướp xác này là một tư liệu khoa học có giá trị về nhiều phương diện:
- Đây là ngôi mộ ướp xác đầu tiên tìm thấy từ một tỉnh xa nhất về phía nam.
- So với những ngôi mộ ướp các được phát hiện ở các tỉnh
phía Bắc, ngôi mộ này có những đặc điểm riêng cần nghiên cứu như: Nắp
quan tài là một nửa thân cây để nguyên vỏ, thi hài ngâm trong dung
dịch giữ xác...
- Những di vật trong ngôi mộ phản ánh nghi thức mai táng y
trang phục các nghề thủ công, phong tục tập quán và lối sống xã hội
đương thời.
- Chủ nhân của ngôi mộ thuộc gia đình Tây Sơn và có quan
hệ mật thiết với Tây Sơn nên những do vật đó cúng là những chứng tích
về đời sống văn hoá xã hội, kinh tế thời bấy giờ.
(Trích "Quang Trung Nguyễn Huệ- con người và sự nghiệp"- Phan Huy Lê.)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (XemTuong.net)