Về hành, Bản Mệnh rơi vào một trong
năm hành: Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ. Hành chỉ thể chất căn bản của Bản Mệnh. Về nguyên thể của hành Bản Mệnh, có
thất cả 30 loại cho 5 hành, mỗi hành có 6 loại: 1)
Hành Kim - Sa trung kim (vàng trong cát) - Kim bạc kim (vàng pha kim khí trắng) - Hải trung kim (vàng dưới biển) - Kiếm phong kim (vàng ở mũi kiếm) - Bạch lạp kim (vàng trong nến trắng) - Thoa xuyến kim (vàng làm đồ trang
sức) 2) Hành Thủy - Thiên hà thủy (nước ở trên trời) - Đại khê thủy (nước dưới khe lớn) - Đại hải thủy (nước đại dương) - Giản hạ thủy (nước dưới khe) - Tuyền trung thủy (nước giữa dòng
suối) - Trường lưu thủy (nước chảy thành
giòng lớn) 3) Hành Mộc - Bình địa mộc (cây ở đồng bằng) - Tang đố mộc (gỗ cây dâu) - Thạch lựu mộc (gỗ cây thạch lựu) - Đại lâm mộc (cây trong rừng lớn) - Dương liễu mộc (gỗ cây liễu) - Tùng bách mộc (gỗ cây tùng bách) 4) Hành Hỏa - Sơn hạ hỏa (lửa dưới chân núi) - Phú đăng hỏa (lửa ngọn đèn) - Thiên thượng hỏa (lửa trên trời) - Lộ trung hỏa (lửa trong lò) - Sơn đầu hỏa (lửa trên núi) - Tích lịch hỏa (lửa sấm sét) 5) Hành Thổ - Bích thượng thổ (đất trên vách) - Đại dịch thổ (đất thuộc 1 khu lớn) - Sa trung thổ (đất lẫn trong cát) - Lộ bàng thổ (đất giữa đường) - Ốc thượng thổ (đất trên nóc nhà) - Thành đầu thổ (đất trên mặt thành) Sự phân loại chi tiết này khả dĩ
giúp xác định nguyên thể, đặc tính thể chất của hành Bản Mệnh, từ đó có thể suy
diễn được sự phong phú hay bất túc của Bản Mệnh, tác hóa giữa Bản Mệnh khác
nhau, ảnh hưởng hỗ tương giữa Mệnh và Cục, tương quan giữa các cung an Mệnh và
Bản Mệnh, giữa chính diệu thủ Mệnh và Bản Mệnh. Tuy nhiên, dù tế phân, nhưng nguyên
thể của Bản Mệnh không được sách vở mô tả rõ ràng các đặc tính nhất là tác hóa
với nguyên thể khác. Sự sơ sót này khiến cho mỗi người hiểu đặc tính và tác
dụng của mỗi nguyên thể một khác, tạo ra nhiều ngộ nhận và tranh luận nan giải.
Đây là một lãnh vực các nhà khảo cứu Tử – Vi cần khai triển cho phong phú và cụ
thể. B. CỤC Trong khoa Tử Vi, danh từ Cục được
dùng ở hai trường hợp: 1) Cục được dùng chung với 1 danh từ
chỉ hành. Ví dụ: Kim Cục, Thủy Cục, Mộc Cục, Hỏa Cục, Thổ Cục. Trong trường hợp
này, vị trí an cục là nơi ở giữa lá số, bên cạnh vị trí an Bản Mệnh. Không có tác giả nào định nghĩa chữ
Cục trong vị trí này. Vì sự thiếu sót đó, nên ta chỉ có thể hình dung tạm thời
Cục như một yếu tố căn bản, một thành phần bất khả phân của con người, có tính
cách quyết định vận mệnh con người một các rất tổng quát. Cũng vì tính cách quá
ư tổng quát đó, nên Cục không nói lên được đặc điểm gì xác định về con người. Cục được đánh giá qua sự tương sinh
hay tương khắc với Bản Mệnh để tìm trong tương sinh hay tương khắc đó một ý
nghĩa tổng quát nào đó về con người. Ví dụ: Kim Mệnh đi với Thủy Cục thì
tương sanh, từ đó, tiên niệm rằng đời người tương đối suông sẻ, ít gặp nghịch
cảnh, tương đối phong túc. (?) Ngược lại, Kim Mệnh đi với Mộc Cục
tất tương khắc, do đó sẽ gặp nhiều trắc trở trên bước đường đời (?). Nếu Kim
Mệnh đi với Kim Cục thì tị hòa, không tốt, không xấu, bình thường, tiên niệm
rằng con người tạm thích nghi được với mọi hoàn cảnh của cuộc đời, sự thăng hay
sự trầm cũng vừa phải, nổi bật thì không nổi bật, nhưng lu mờ thì cũng không
mấy lu mờ (?). Vì được xét trong tương quan với Bản
Mệnh qua sự sinh khắc của hai thành, nên cần biết qua về liên hệ giữa Mệnh
và Cục. Trong bối cảnh này. Bản Mệnh bao giờ cũng được xem
là quan trọng hơn Cục. Do đó, Mệnh thịnh dĩ nhiên tốt hơn Cục thịnh. Bản Mệnh chỉ thịnh vượng trong
trường hợp hành của Mệnh được hành của Cục tương sinh. Ví dụ: Mệnh Thủy, Cục
Kim. Cục Kim vốn sanh Mệnh Thủy. Cục phù cho mệnh thì mệnh tốt. Ngược lại
nếu mệnh sanh cục thì mệnh hao. Thành thử Cục sanh Mệnh đẹp hơn Mệnh
sanh Cục, dù cả hai hành tương sinh. Trong trường hợp Mệnh Cục tương
khắc, sự tốt đẹp bị hóa giải đi nhiều và kém hơn trường hợp Mệnh sinh Cục. Sự tương quan giữa Mệnh và Cục nói
lên 1 hàm số của Phúc đức. Nếu Phúc tốt mà Mệnh Cục tương khắc thì cái tốt bị
chiết giảm. Sự sinh khắc giữa Mệnh Cục so với Phúc đức có thể ví như một cái
máy trợ lực hay một cái thắng đối với phúc. Nếu mệnh thịnh thì phúc tốt hơn,
ngược lại phúc kém đi trở thành xấu. Qua sự khảo sát trên, ta có thể ví
Mệnh và Cục nhu hai lực tuyến của Phúc đức. Tùy theo 2 lực tuyến này tương sinh
hay tương khắc, phúc đức sẽ chịu ảnh hưởng tốt hay xấu. Đến đây, ta thấy rằng
riêng cung Phúc không đủ quyết định vận mệnh của người, mà phải tùy thuộc thêm
2 lực tuyến Mệnh – Cục, trong đó lực tuyến Mệnh có tính cách áp đảo hơn. 2) Cục được dùng trong trường hợp
thứ 2 trong các danh từ phú cục, quý cục, bần tiện cục, tạp cục của Thái Thứ
Lang trong quyển Tử – Vi đầu số trang 293. Phú cục được tác giả này định nghĩa
như giàu có, Quý cục là có danh chức, quyền quí, Bần tiện cục là nghèo hèn, Tạp
cục là xấu tốt lẫn lộn. Như vậy, Cục có thể định nghĩa như tình
trạng hạnh phúc của một người. Tình trạng đó được phản ánh qua tiền
bạc, công danh địa vị. Tóm lại, những gì người đó tạo được cho mình, những yếu
tố thế lực của mình. Sự phân cục như trên cho thấy có 2 yếu tố thế lực quyết
định tình trạng hạnh phúc hay địa vị xã hội: - Tiền bạc - Danh quyền Nói khác đi, đó là loại hạnh
phúc vật chất của con người sống ở ngoài đời, đặt căn bản trên đồng
tiền và danh quyền. Không thấy nói đến loại hạnh phúc tinh thần, duy linh. Về
điểm này, kho Tử – Vi không theo quan điểm của đạo học Lão Trang hay Thích Ca
Nhân sinh quan của Tử – Vi học là nhân sinh quan của người phàm tục chớ không
phải là nhân sinh quan của người phật tử hay trang tử. Hạnh phúc con người nằm
trong sự đắc thời nhiều hơn là đắc đạo, tùy thuộc yếu tố vật chất hơn là yếu tố
duy linh. Để có 1 ý niệm về các cục, xin mô
phỏng sau đây bảng liệt kê của Thái Thứ Lang về các cục: a)
Phú cục - Tài
Ấm giáp Ấn Cung Mệnh hay cung Điền, Tài có
Tướng sáng sủa tọa thủ, có Lương giáp cung. - Phủ
Ấn củng thân Cung Thân có Phủ, Tướng hợp chiếu - Kim
Sán quang huy Cung Mệnh hay Điền, Tài an tại Ngọ
có Nhật tọa thủ. - Nhật
Nguyệt giáp Tài Cung Mệnh hay Điền Tài an tại Sửu có
Tham VŨ tọa thủ đồng cung, hay tại Mùi có Phủ tọa thủ có Nhật Nguyệt giáp cung. - Nhật,
Nguyệt chiếu bích Cung Mệnh hay Điền Tài an tại Sửu có
Nhật Nguyệt tọa thủ đồng cung tại Mùi xung chiếu, hay an tại Mùi có Nhật Nguyện
tọa thủ đồng cung tại Sửu xung chiếu. - Vũ
Lộc giáp Mã Cung Mệnh hay Điền, Tài có Mã tọa
thủ có Vũ Lộc giáp cung. b)
Quí cục - Kim
Dư phù giá Tử sáng sủa tọa thủ ở cung Mệnh hay
Quan, có Tả Hữu, Thiếu Dương, Thiếu Âm, giáp cung nên quí cách, ví như xe vàng
phò vua. - Tử
Phủ triều viên Cung Mệnh hay Quan của Tử sáng sủa
tọa thủ gặp Phủ chiếu hay ngược lại. - Phụ
Bật củng chủ Cung Mệnh hay quan có Tử sáng sủa tọa
thủ có Tả, Hữu hợp chiếu - Quân
Thần Khánh hội Cũng như trên, nhưng thêm đủ bộ
Xương Khúc Khôi Việt Long Phượng hội hợp. - Phủ
Tướng triều viên Cung Mệnh hay Quan có Tử sáng sủa
tọa thủ gặp Tướng chiếu, hay ngược lại. - Vũ
Khúc thủ viên Vũ thủ Mệnh tại Mão - Cự
Cơ Mão Dậu Cung Mệnh hay Quan tại Mão Dậu có Cự
Cơ đồng cung - Thất
Sát triều đẩu Cung Mệnh hay Quan an tại Dần Thân
có Sát tọa thủ có Tử Phủ đồng cung xung chiếu. - Tham
hỏa tương phùng Cung Mệnh hay Quan an tại Tứ mộ, có
Tham Vũ tọa thủ đồng cung - Nhật
xuất phù tang Cung Mệnh hay quan an tại Mão có
Nhật tọa thủ - Nguyệt
lăng thiên môn Cung Mệnh hay Quan tại Hợi có Nguyệt
tọa thủ - Nguyệt
sinh thương hải Cung Mệnh hay Quan tại Tý Nguyệt tọa
thủ - Nhật
Nguyệt đồng lâm Cung Mệnh hay Quan tại Sửu có Nhật
Nguyệt ở Mùi đồng cung xung chiếu, hay tại Mùi có Nhật Nguyệt đồng cung Sửu
xung chiếu. - Nhật
Nguyệt tịnh minh Cung Mệnh hay Quan tại Sửu có Nhật ở
Tỵ, Nguyệt ở Hợi hợp chiếu, hay an tại Mùi có Nguyệt ở Hợi, Nhật ở Mão hợp
chiếu - Nhật
Nguyệt giáp Mệnh Xem Nhật Nguyệt giáp Tài - Lộc
Mã bội Ấn Cung Mệnh hay Quan có Tướng sáng
sủa, có Lộc Mã giáp. - Hình
Tù giáp Ấn Cung Mệnh hay Quan có Tướng tọa thủ,
có Kình, Liêm giáp cung. - Mã
đầu đới kiếm Cung Mệnh hay Quan ở Ngọ, có Kình
tọa thủ, có Hình Mã hợp chiếu, như đầu ngựa có mang thanh kiếm. - Kình
dương nhập miếu Cung Mệnh hay Quan ở Tứ Mộ có Kình
tọa thủ, nhất là đối với tuổi Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. - Tọa
Quí, hướng Quí Cung Mệnh hay Quan có Khôi tọa thủ,
có Việt chiếu hay ngược lại. - Văn
tinh ám củng Cung Mệnh hay Quan có Xương Khúc
chiếu. Nếu có thêm Khô Việt Tuế hội hợp lại càng rực rỡ. - Khoa Quyền Lộc củng Cung Mệnh hay Quan có Khoa Quyền Lộc
hội chiếu. - Quyền
Lộc sinh Phùng Cung Mệnh hay Quan có Khoa tọa thủ,
Sinh tọa thủ đồng cung. - Khoa
minh Lộc Ám Cung Mệnh hay Quan có Khoa tọa thủ,
có Lộc nhị hợp hay ngược lại. - Minh
lộc Ám lộc Cung Mệnh hay Quan có Hóa Lộc tọa
thủ, có Lộc Tồn nhị hợp hay có Lộc Tồn tọa thủ, có Lộc nhị hợp. - Tài
Ấn giáp Lộc Cung Mệnh hay Quan có Lộc tọa thủ,
giáp Vũ Tướng c)
Bần tiện cục - Sinh
bất phùng thời Liêm thủ Mệnh tại Dần Thân gặp Tuần,
Triệt án ngữ. - Nhất
sinh cô bần Phá thủ Mệnh tại Dần Thân gặp nhiều
sát tinh mờ ám xấu xa xâm phạm. - Tài
dữ tù cừu Vũ hay Liêm mờ ám xấu xa thủ Mệnh,
gặp nhiều sát tinh xâm phạm. - Nhật
Nguyệt tàng hung Nhật, Nguyệt mờ ám thủ hay chiếu
Mệnh hay giáp Mệnh. - Quân
tử tại dã Mệnh có nhiều Sát tinh xấu xa hội
họp - Lộc
phùng lưỡng sát Lộc Tồn hay Hóa Lộc thủ Mệnh gặp
không kiếp đồng cung - Lưỡng
Phùng Hoa Cái Xem Lộc Phùng lưỡng Sát - Mã
Lạc không vong Mã thủ Mệnh gặp Tuần Triệt án ngữ d)
Tạp cục - Cẩm
Thượng Thiên Hoa Cung Mệnh Thân sáng sủa tốt đẹp, vận
hạn lại rực rỡ lên như gấm thêu hoa. - Phong
Vân Tế Hội Cung Mệnh, Thân xấu xa, nhưng vận
hạn lại rất tốt như rồng gặp mây. - Khô
Mộc phùng xuân Cung Mệnh Thân xấu xa mờ ám, nhưng
vận hạn lại tốt đẹp, nên ví như cây khô gặp mùa Xuân (nhưng kém cục Phông Vân
Tế Hội). - Y
cẩm hoàn hương Lúc ít tuổi vất vả, lại lận đận vì
gặp hạn xấu xa, nhưng về già lại an nhàn khá giả vì gặp hạn tốt đẹp - Thủy
thượng giá tinh Hơn 1 năm tốt rồi gặp 1 năm xấu
không đều đặn, ví như bóng ma chập chờn trên mặt nước. - Cát
hung tương bán Như trên, nhưng đôi khi nửa năm hanh
thông, rồi nửa năm sau bế tắc. - Bộ
số vô y Vận hạn trước sau xấu tốt không rõ rệt,
may đi liền với rủi kéo dài liên miên - Lộc
xung Mã khổn Hạn gặp Sát Lộc Mã hội họp và Tam
không xâm phạm. Ngoài ra, Thái Thứ Lang có thêm
rằng: - Phú Cục và Quí Cục trình bày sơ lược
trên đây rất cần phải xa lánh Tuần Triệt, Sát, Bại tinh. Ngoại trừ, Quí Cục:
Tham Hỏa tương phùng, Nhật Nguyệt giáp Mệnh ở Sửu có Tham Vũ tọa thủ (hay ở Mùi
có Phủ tọa thủ giáp Nhật Nguyệt) và Văn tinh ám củng (Mệnh hay Quan có xương
khúc) dù gặp khắc tinh cũng không bị chiết giảm tốt đẹp, và nếu Sát tinh sáng
sủa lại càng thêm rực rỡ. - Phú và Quí rất cần gặp khoa Quyền
Lộc hội họp mới thật là toàn mỹ. - Bần tiện cục nếu gặp Tuần Triệt án
ngữ (ngoại trừ trường hợp Sinh Bất Phùng Thời và Nhật Nguyệt Tàng Hung) cũng đỡ
xấu xa, và nếu gặp thêm nhiều sao sáng đẹp, chắc hẳn là trở nên tốt đẹp. Tóm lại, danh từ Cục, hiểu theo
nghĩa thứ hai, được dùng để chỉ một phương diện nào đó của hạnh phúc vật chất
con người - hoặc phú (giàu), hoặc quí (sang),
hoặc bần tiện (không giàu, không sang) - Mỗi cục qui tụ một số sao đồng đặc
tính nói lên phương diện nổi bật nhất của hạnh phúc con người. Cục không gói
ghém toàn thể các khía cạnh của hạnh phúc. Do đó, Cục chỉ có một nghĩa phiến
diện, nghĩa trội yếu nhất, nhấn mạnh đến một đại hạt quan trọng nhất của hạnh
phúc thế tục mà thôi. Điều cần lưu ý là các sao của một
cục, muốn hội đủ ý nghĩa quan trọng đó, phải được đắc địa và không bị sát tinh
hay không tinh (Tuần Triệt) xâm phạm. Mặt khác, cũng cần lưu ý thêm rằng có một
số cục toàn hảo, có một số cục khác cần được trợ lực bởi vài cục khác nữa mới
toàn hảo. Ví dụ như Quý cục “Khoa Quyền Lộc cùng” là một cục toàn hảo vì bao
gồm 3 yếu tố: khoa bảng quyền tước và tài lộc. Còn quý cục “Kình Dương nhập
miếu” là một cục hoàn hảo, cần được quí cục khác bổ túc và trợ lực để đắc quý.
Trong thực tế, trong một lá số ít khi ta gặp những cục thuần hảo. Thông thường,
cục tốt hay gặp những phá cục chế giảm, hoặc gặp những sát tinh hay không tinh
phá tán. Thành thử, riêng cục đứng một mình mới có ý nghĩa cơ hữu. Nếu đi chung
với phá cục hay sát hung tinh, thì mất hoặc giảm ý nghĩa cơ hữu. Người giải
đoán Tử – Vi bao giờ cũng phải xét cục trong bối cảnh các cục tốt hay xấu khác
chớ không nên quy chiếu vào một cục để kết luận vội vã. Một lần nữa, hàm số là
phương pháp để đánh giá Cục. c)
Cách Trong khi cục chỉ riêng rẽ một khía
cạnh của hạnh phúc con người thì Cách chỉ nhiều khía cạnh của hạnh phúc cùng
một lúc. Vì vậy, Cách đủ nghĩa và nhiều nghĩa hơn Cục. Thái Thứ Lang, trong quyển Tử – Vi
Đầu Số trang 289, đã phân biệt bốn cách: thượng cách, trung cách, hạ cách và
phi thường cách với đặc điểm hội tụ của các chính tinh và phụ tinh sau đây: 1)
Thượng Cách Được giải thích như có chức vị lớn,
phú quí hiển hách với điều kiện phải thật hoàn toàn nghĩa là Mệnh Cục tương
sinh, âm dương thuận lý, hội đủ chính tinh trong cách đó và qui tụ nhiều cát
tinh cũng đắc địa. Thượng Cách được Thái Thứ Lang chia
lão 5 bộ: - Tử Phủ Vũ Tướng. - Cơ Nguyệt Đồng Lương. - Sát Phá Liêm Tham. - Cự Nhật. - Nhật Nguyệt. Mỗi bộ như thế phải qui tụ chính
tinh miếu, vượng hay đắc địa, đồng thời với nhiều trợ tinh như Tả, Hữu, Xương
Khúc, Khôi Việt, Long Phượng, Đào Hồng, Khoa Quyền Lộc (không thấy kể Quang
Quý, Thai Tọa). Cụ thể hơn, có thể nói rằng người
đắc thượng cách có những điều kiện sau: - Có khoa bảng cao. - Có chức tước cao về văn hay võ, làm
quan từ hàng tam phẩm trở lên, được gần gũi với nguyên thủ quốc gia. - Có quyền lớn. - Có tiền bạc, điền sản dồi dào. - Được người đời trọng vọng vì các
điều kiện trên. Tóm lại, đây là hạng người đặc biệt
vừa có tài, vừa được trọng dụng, sinh phùng thời, có nhiều cơ hội thi thố tài
năng quyền chức của mình ở hệ cấp quốc gia, đạt được thành công lớn lao đối với
người đời. Tuy nhiên, cần lưu ý đối với nhược
điểm đó có thể chỉ liên quan đến đương sự mà thôi. Những lợi điểm này có thể đi
kèm với những bất lợi khác liên quan đến gia đạo, con cái, bệnh tật. Đây không
phải là hạnh phúc trọn vẹn trăm phần trăm mà vẫn có ít nhiều tương đối. 2)
Trung Cách Được Thứ Thái Lang giải thích như
không được hoàn toàn, nghĩa là Mệnh Cục tương khắc, âm dương nghịch lý, chính
diệu lạc lõng (không hội đủ chính tinh) hoặc 1 số chính tinh trong bộ sao bị
lạc hãm, không hội đủ trợ tinh nhiều và cùng đắc địa. Ông cho rằng trong Trung Cách gồm có
những nghề nghiệp, chức vị khá giả, nhưng không được rực rỡ hiển hách. Các bộ
Trung Cách được ông liệt kê như sau: - Cơ Nguyệt Đồng Lương, hội Tả
Hữu, Quang Quí, Thiên Quan, Thiên Phúc: làm bác sĩ có danh tiếng. - Cơ Nguyệt Đồng Lương, hội Tả Hữu Khoa Quyền Khôi Việt,
Xương Khúc, Tấu: làm giáo sư, viết báo có tiếng. - Tử Phủ Vũ Tướng hội Long Phượng Tả Hữu Hình,
Riêu, làm thợ khéo léo. - Thiên Cơ hội Hồng Đào, Riêu Tấu,
chuyên ca vũ nhạc kịch rất nổi danh. - Thiên Cơ hội Hồng Tấu:
làm thợ may, thợ thêu đắc thời. - Sát Phá Liêm Tham hội Hồng Đào Tấu Long Phượng:
làm họa sĩ giỏi. - Cơ Nguyệt Đồng Lương hội Tả Hữu Xương Khúc Thai
Cáo: làm công chức nhỏ thấp, lý trưởng, xã trưởng. - Cơ Nguyệt Đồng Lương hội Tướng Ấn Long Phượng Phù:
làm phù thủy cao tay.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Mỹ Ngân (XemTuong.net)